Contents
Bệnh Thương Hàn và lịch sử phát hiện:
- Bệnh thương hàn đã tồn tại từ thời kỳ cổ đại với các mô tả của bệnh được tìm thấy trong các văn bản y học cổ của Ai Cập, Hy Lạp, và La Mã.
- Bệnh thương hàn được đặc biệt đáng chú ý trong thế kỷ 19, khi các đợt dịch lớn bùng phát.
- Năm 1811-1880: Bác sĩ William Budd, người Anh, nhận ra rằng bệnh thương hàn có thể lây truyền qua nước bị ô nhiễm.
- Năm 1835-1926: Nhà vi khuẩn học người Đức Karl Joseph Eberth phát hiện vi khuẩn gây bệnh thương hàn.
- Năm 1850-1918: nhà vi khuẩn học Georg Gaffky người Đức đã nuôi cấy thành công vi khuẩn gây bệnh thương hàn từ mẫu bệnh phẩm của người.
- Vi khuẩn gây bệnh thương hàn được chính thức đặt tên là Salmonella enterica serovar Typhi.
- Vi khuẩn được đặt theo tên Daniel Elmer Salmon, người đã có nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu về vi khuẩn gây bệnh ở động vật và người.
Xác định nguồn gốc gây bệnh
- Tác nhân gây bệnh: Bệnh thương hàn do vi khuẩn Salmonella enterica serovar Typhi (S. Typhi) gây ra.
- Đường lây truyền: Chủ yếu qua nước hoặc thực phẩm bị nhiễm vi khuẩn.
- Bệnh cũng có thể lây lan từ người sang người qua tiếp xúc với phân hoặc nước tiểu của người nhiễm bệnh.
Triệu chứng bệnh thương hàn:
-
Giai đoạn khởi phát:
- Sốt cao,
- đau đầu,
- mệt mỏi,
- đau bụngvà chán ăn.
- Có thể kèm theo ho khan.
-
Giai đoạn tiến triển:
- Sốt cao liên tục, phát ban hồng trên da (rose spots),
- Tiêu chảy hoặc táo bón, đau bụng nhiều hơn.
-
Giai đoạn biến chứng: bệnh có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng như
- thủng ruột,
- viêm phổi,
- viêm màng não
- nhiễm trùng huyết.
Biến Chứng nguy hiểm:
- Thủng ruột: Một biến chứng nguy hiểm và có thể đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
- Nhiễm trùng huyết: Vi khuẩn có thể xâm nhập vào máu, gây nhiễm trùng toàn thân.
- Viêm túi mật, viêm gan, và viêm tụy: Các cơ quan này có thể bị nhiễm trùng do vi khuẩn S. Typhi.
Phòng ngừa bệnh thương hàn:
- Uống nước đun sôi và nước thải cần được xử lý có hiệu quả.
- Những người mang mầm bệnh mạn tính nên tránh dùng thức ăn và không nên chăm sóc bệnh nhân hoặc trẻ nhỏ cho đến khi chúng được chứng minh là không có sinh vật; cần phải có biện pháp phòng ngừa cách ly bệnh nhân đầy đủ. Chú ý đặc biệt đối với các biện pháp phòng ngừa chất thải.
- Những người đi du lịch ở những vùng lưu hành nên tránh ăn các loại rau lá tươi, các thực phẩm cất giữ hoặc phục vụ ở nhiệt độ phòng, và nước chưa sôi (kể cả đá). Trừ khi nước được biết là an toàn, nó phải được đun hoặc clo hoá trước khi uống.
Tiêm chủng vắc xin typhim phòng ngừa bệnh thương hàn
- Vắcxin phòng bệnh thương hàn là vắc xin sống giảm độc lực (chủng Ty21a); nó được sử dụng cho khách du lịch đến các vùng lưu hành và có hiệu quả khoảng 70%. Cũng có thể được xem xét cho các hộ gia đình hoặc tiếp xúc gần với người mang vi khuẩn.
- Thuốc chủng ngừa Ty21a được tiêm cách ngày với tổng cộng 4 liều, nên được hoàn tất trước khi đi du lịch 1 tuần. Cần tăng cường sau 5 năm đối với những người có nguy cơ mắc bệnh. Vắc xin nên được trì hoãn trong > 72 giờ sau khi bệnh nhân dùng bất kỳ kháng sinh nào và không nên dùng với thuốc chống sốt rét mefloquine. Vì vắc-xin có chứa S. Typhi, nó là chống chỉ định ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch. Ở Hoa Kỳ, vắc xin Ty21a không được sử dụng ở trẻ em < 6 tuổi.
- Một lựa chọn thay thế là vắc-xin polysaccharide dạng nang Vi (ViCPS) , tiêm bắp, một liều, được tiêm ≥ 2 tuần trước khi đi du lịch. Vắc xin này có hiệu quả từ 64 đến 72% và được dung nạp tốt, nhưng không được sử dụng cho trẻ em < 2 tuổi. Đối với những người có nguy cơ, cần phải tiêm nhắc lại sau 2 năm.